LỊCH CÔNG TÁC
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 11/11/2024 - 15/11/2024) (08/11/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 04/11/2024 - 08/11/2024) (01/11/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 28/10/2024 - 01/11/2024) (25/10/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 21/10/2024 - 26/10/2024) (18/10/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 14/10/2024 - 19/10/2024) (11/10/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 07/10/2024 - 11/10/2024) (04/10/2024)
KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ
TS. Lê Thị Thu Huyền
Tóm tắt: Ở Việt Nam, bình đẳng giới là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta từ khi ra đời. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng đã nêu rõ: Nam nữ bình quyền là một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Quan điểm đó tiếp tục phát triển đến ngày nay. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình chuyển đổi số trở thành tất yếu đã mở ra cơ hội, nhưng cũng đặt ra thách thức của sự phát triển trong đó có vấn đề bình đẳng giới. Bài viết phân tích tác động của quá trình chuyển đổi số đến vấn đề lao động, việc làm, đặc biệt là lao động nữ cùng những khuyến nghị để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới một cách thực chất.
Từ khoá: Chuyển đổi số, bình đẳng giới, phụ nữ.
1. Chuyển đổi số là vấn đề được quan tâm hàng đầu và trở thành xu thế tất yếu với hầu hết các quốc gia, khu vực. Đó không còn là sự lựa chọn mà là sự bắt buộc nếu các quốc gia, tổ chức không muốn tụt hậu. Bởi lẽ, chuyển đổi số giúp cho quá trình tận dụng công nghệ, kỹ thuật số hiện đại nâng cao hiệu suất, chất lượng; tạo ra những giá trị mới thông qua đổi mới mô hình hoạt động, thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn và kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0. Quá trình chuyển đổi số tác động như thế nào đến xu hướng lao động, các nhóm lao động theo giới tính, cũng như khả năng tiếp cận, vấn đề thu nhập, bình đẳng trong cơ hội phát triển, nhất là đối với phụ nữ.
Chuyển đổi số bên cạnh những thuận lợi thì người lao động đối diện với nhiều thách thức về việc làm, đặc biệt là lao động nữ - lực lượng chiếm phần lớn trong những ngành thâm dụng lao động, làm việc ở các vị trí giản đơn, thiếu bền vững, nhiều nguy cơ mất việc. Quá trình chuyển đổi số kéo theo sự thay đổi xu hướng lao động, tác động trực tiếp đến sự chuyển đổi cơ cấu lao động trong các lĩnh vực, cơ cấu về giới tính trên thị trường lao động trong điều kiện có sự khác biệt về mặt sinh học, những thiên chức của người phụ nữ sẽ tác động đến vai trò và vấn đề bình đẳng giới trong quá trình phát triển. Xu hướng thu hẹp tỉ trọng lao động giản đơn, gia tăng tỉ trọng lao động phức tạp, chất lượng cao, có kỹ năng, tay nghề là tất yếu, điều này tạo ra nhu cầu và cơ hội việc làm mới nhưng cũng tạo ra thách thức cho một số lĩnh vực truyền thống, nhiều ngành nghề sẽ không còn phù hợp với lao động nữ sẽ thay thế bằng ngành nghề mới[1] phù hợp với xu thế của thời đại.
Trên thực tế, mức độ, tốc độ ảnh hưởng tới lao động của quá trình chuyển đổi số ở các khu vực, các nước là không giống nhau, điều này phụ thuộc mức độ ứng dụng và triển khai các công nghệ mang tính đột phá trong vấn đề việc làm. Như ở Mỹ, các nhà nghiên cứu đưa ra dự đoán trong vòng 15 đến 20 năm tới, tự động hóa có thể gây ra rủi ro đến 47%[2] số việc làm, trong khi các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tỉ lệ việc làm bị thay thế khoảng 9%[3]. Đối với một số nước ASEAN[4] có điều kiện tương đồng như Việt Nam thì việc sử dụng công nghệ tự động hóa trong sản xuất đã thực sự bắt đầu và đi vào thực tế một số lĩnh vực[5]. Điều đáng lưu ý nhất được nhiều nhà nghiên cứu và thực tế cũng chỉ ra rằng, chuyển đổi số không chỉ đe dọa an sinh xã hội của những người có trình độ lao động thấp, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới cả những người lao động có kỹ năng mức độ trung bình cũng bị ảnh hưởng nếu không được trang bị kỹ năng mới phù hợp với yêu cầu.
Đối với Việt Nam, theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) trong 10 năm tới, có khoảng 70% số việc làm bị rủi ro cao, 18% rủi ro trung bình và 12% rủi ro thấp[6]. Thực tế, lao động bị ảnh hưởng nhiều nhất liên quan đến lao động giản đơn là lĩnh vực nông nghiệp, dệt may, lắp ráp, thủ công … Đây không chỉ là ngành nghề chiếm tỉ trọng lớn trong lực lượng lao động, chiếm tỉ lệ thất nghiệp lớn trong tổng số lao động thất nghiệp và lực lượng tham gia chủ yếu trong lĩnh vực này là phụ nữ. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, 76,8% phụ nữ Việt Nam tham gia thị trường lao động - là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao trên thế giới, là một trong những lực lượng chính - vừa là chủ thể vừa là đối tượng thụ hưởng. Với phụ nữ, tham gia thị trường lao động luôn bị tác động bởi đặc điểm về giới, không chỉ vậy, những vấn đề phong tục truyền thống, văn hóa, định kiến về vai trò, vị trí của phụ nữ trong đời sống xã hội cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự bất bình đẳng trong lĩnh vực lao động và thu nhập.
2. Theo Liên hợp quốc, bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và đàn ông được hưởng những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người và có cơ hội đóng góp, thụ hưởng những thành quả phát triển của xã hội nói chung; là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Ở Việt Nam, bình đẳng giới đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Luật bình đẳng giới, hành lang pháp lý được ban hành là cơ sở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới một cách toàn diện. Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới trong thực tế cũng còn những hạn chế.
Truyền thông và các chính sách có liên quan đến lao động, việc làm chưa làm thay đổi một cách tích cực về quan niệm, suy nghĩ, quan điểm về giới trong đào tạo, tuyển dụng, lao động và tiền công. Quan niệm, tập tục, văn hóa truyền thống về lao động của người phương Đông, phụ nữ thường đảm nhận những công việc có tính chất phục vụ, công việc gia đình, lĩnh vực lao động giản đơn, thường có thu nhập không tương xứng, nguy cơ mất việc cao phản ánh vai trò, vị thế, thu nhập thấp. Các lĩnh vực hàm lượng trí tuệ cao, lao động phức tạp đòi hỏi về trình độ thường quan niệm là nam giới. Ở Việt Nam hiện nay, tỉ lệ nữ tham gia lực lượng lao động ở mức cao, nhưng cũng đồng nghĩa với nguy cơ bị mất việc, thu nhập thấp và dễ bị tổn thương luôn hiện hữu. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam cao nhất trong khu vực Đông Nam Á với mức 76,8%, độ tuổi từ 25-49 tuổi tham gia vào lực lượng lao động rất cao từ 95,2%-96,7%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ cao có thể bị hiểu nhầm là một chỉ báo về mức độ bất bình đẳng giới tương đối thấp trong tham gia lực lượng lao động khi tỷ lệ này ở nam giới cũng chỉ ở mức 81,9%[7]. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều bất bình đẳng có tính chất dai dẳng do vị thế việc làm có sự khác biệt từ quan niệm truyền thống ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và nguy cơ dễ mất việc làm hơn nam giới.
Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và trình độ cao là yếu tố cơ bản tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, tham gia vào các lĩnh vực lao động có chuyên môn và tạo ra giá trị gia tăng, về góc độ này, cơ hội của phụ nữ là thấp hơn so với nam giới. Tiếp cận từ khía cạnh này dẫn đến mất cân bằng trong cơ cấu đào tạo nhân lực và cơ cấu lao động. Nguyên nhân từ bất bình đẳng tiếp cận từ khía cạnh giáo dục là thứ cấp, tuy nhiên không thể không đánh giá và phải được coi là cội nguồn để hình thành đội ngũ lao động chất lượng cao. Hiện nay, nguồn lao động dồi dào và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao nhưng chỉ hơn 1/5 số lao động có việc làm đã qua đào tạo (22,6% năm 2019) và có sự khác biệt rõ rệt giữa nam giới và nữ giới khi cứ 4 lao động nam có việc làm thì có 1 người đã qua đào tạo (tỷ lệ 25%), ở nữ giới thì cứ 5 lao động có việc làm thì mới có 1 người đã qua đào tạo (tỷ lệ 20%). Tỷ lệ này đặc biệt thấp với lao động nữ thuộc khu vực nông thôn (chỉ đạt 12,3% năm 2019) chỉ bằng gần 1/3 tỷ lệ của khu vực thành thị (36,3%)[8]. Để thực hiện mục tiêu “giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030”[9] cần tiếp tục ưu tiên các nguồn lực cho đào tạo, dạy nghề, đặc biệt là nữ tại khu vực nông thôn.
Xem xét từ phương diện lĩnh vực lao động và vùng miền, có thể thấy phụ nữ chiếm đa số trong nhóm lao động gia đình không được trả công, đặc biệt phụ nữ tại khu vực nông thôn, những vùng kinh tế kém phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số chịu nhiều rủi ro, không được tiếp cận nhiều với các dịch vụ bảo trợ xã hội, thu nhập bấp bênh và dễ bị tổn thương. Điều này cũng phần nào lý giải lý do tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực nông thôn 1,5% (nữ là 1,5%) thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ 2,9% (nữ 3%)[10] khu vực thành thị. Qua số liệu trên có thể thấy, dù đã có nhiều tiến bộ trong bình đẳng giới, nhưng bất bình đẳng giới trong lao động và tiếp cận việc làm ở nước ta vẫn còn có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn; giữa các vùng kinh tế.
3. Trong bối cảnh chuyển đổi số, cơ hội phụ nữ tham gia tích cực vào quá trình kiến tạo môi trường sống và làm việc trong môi trường số, phương thức mới hướng đến cải thiện vị trí, nâng cao vai trò, thực hiện bình đẳng giới, nhưng cũng là quá trình làm cho mục tiêu bình đẳng giới trước nhiều thách thức. Để nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông làm thay đổi nhận thức của xã hội về bình đẳng giới. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng truyền thông về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng, xóa bỏ định kiến giới trên các lĩnh vực nói chung, thì cần truyền thông về bình đẳng trong hoạt động kinh tế, lao động, việc làm góp phần bảo vệ, phát triển quyền cơ bản của con người. Không có việc làm, không thể có đời sống tốt, không có bình đẳng trong lao động, việc làm, thu nhập, không thể có bình đẳng trong các lĩnh vực khác.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử nói chung, trong lĩnh vực lao động nói riêng. Bảo vệ quyền lợi, chính sách ưu tiên cho phụ nữ trong các lĩnh vực liên quan đến công tác đào tạo, phát triển, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nguồn nhân lực nữ. Đây là hành lang pháp lý có ý nghĩa quan trọng, vượt qua rào cản định kiến về giới, là cơ sở để các tổ chức, cá nhân xây dựng các kế hoạch, chương trình có lợi, mở ra cơ hội cho phụ nữ được tham gia thị trường lao động bình đẳng, theo các lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành. Do định kiến về giới, các đơn vị sử dụng lao động thường e ngại hay hạn chế sử dụng lao động nữ, các quy định thời gian tối thiểu công tác trước khi xây dựng gia đình, sinh con được các đơn vị sử dụng lao động tạo ra gây ra tình trạng vi phạm quyền con người cần phải được chấm dứt thông qua hệ thống pháp luật. Tiếp tục cải cách thể chế để xác lập quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ. Các quyền pháp lý về xã hội và kinh tế sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi, cho phép phụ nữ tham gia hiệu quả vào đời sống xã hội, đảm bảo chất lượng cơ bản của cuộc sống. Có như vậy, phụ nữ mới có điều kiện, cơ hội bình đẳng khi tham gia thị trường lao động.
Ba là, đa dạng hóa, linh hoạt trong đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực nữ, tùy theo nhu cầu, điều kiện, năng lực có hình thức đào tạo phù hợp. Đào tạo, đào tạo lại không là nguyên nhân trực tiếp tác động đến bình đẳng giới, nhưng là tiền đề để nữ giới tham gia vào các lĩnh vực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tin học, nhất là chuyên môn liên quan trực tiếp đến chuyển đổi số.
Nâng cao năng lực cho lao động nữ là một trong những biện pháp có tính chất cấp bách nhất hiện nay và cần phải thực hiện tốt để bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 đã xác định rõ mục tiêu tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030. Vì thế, việc đẩy mạnh đào tạo nghề, nâng cao năng lực cho lao động nữ càng trở thành vấn đề trọng tâm trong nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng cách bất bình đẳng về giới. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, phải chấp nhận những quy luật khách quan của thị trường lao động, nên cần phải coi việc đào tạo, nâng cao năng lực cho lao động nữ là mấu chốt trong việc giải quyết bài toán tạo cơ hội việc làm cho lao động nữ.
Bốn là, phụ nữ với tư cách người lao động chủ động trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế, giữa các doanh nghiệp và năng lực con người. Phụ nữ phải thực sự chủ động trong việc học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và hội nhập. Đây vừa là quyền lợi, vừa là yêu cầu để bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập. Trước hết, cần chủ động nhận thức về cuộc cách mạng 4.0 và quá trình chuyển đổi số, nhận thức về cơ hội, thách thức, yêu cầu và những nguy cơ đối với lao động nữ. Từ đó, đi trước đón đầu tìm hiểu các thông tin cần thiết, để biết một nền kinh tế thông minh và công nghiệp hóa. Mỗi cá nhân lao động nữ cần nỗ lực, tự vượt qua chính mình, tự học tập, tự trang bị kiến thức, để đáp ứng yêu cầu phát triển mới nhất là yêu cầu những kỹ năng về STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học). Tự ý thức được sự thay đổi, cảm nhận được áp lực, thách thức từ cuộc công nghiệp lần này, để có ứng phó phù hợp với bản thân; nỗ lực tự trau dồi, trang bị cho mình khả năng học hỏi, sẵn sàng tiếp thu những kỹ năng mới vì khả năng được tuyển dụng ít phụ thuộc vào những gì người lao động đã biết mà phụ thuộc nhiều vào khả năng học tập, ứng dụng và thích nghi. Lao động nữ phải thay đổi tư duy và chấp nhận học suốt đời, mất việc này thì học việc mới, làm việc khác và chấp nhận thay đổi môi trường, địa điểm làm việc.
Có thể nói, quá trình chuyển đổi số nền kinh tế chi phối các ngành, nghề và thị trường lao động, trong đó, một số ngành nghề sẽ có biến động lớn thậm chí biến mất. Bên cạnh đó, tuổi thọ của ngành, nghề cũng như chuyên môn đào tạo ngày càng ngắn; các ngành nghề lao động giản đơn sẽ từng bước bị thay thế bởi tự động hóa. Với văn hóa truyền thống, thói quen và sự phát triển của xã hội, phụ nữ Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu lao động giản đơn và thủ công – lĩnh vực dễ bị tổn thương khi cuộc cách mạng 4.0 ngày càng đi vào chiều sâu. Điều này, đặt ra nhiều thách thức cho mục tiêu bình đẳng giới, nhất là trong lao động, việc làm và thu nhập. Để vượt qua thách thức, phát huy năng lực, vai trò của phụ nữ nhằm hướng tới một nền văn minh, trong đó sự bình đẳng mang tính toàn diện, thì không phải trách nhiệm riêng của phụ nữ hay xã hội, mà đòi hỏi phải có sự đồng bộ, hài hòa đồng tiến mà trước hết thay đổi nhận thức từ các nhà quản lý với tư cách các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp với tư cách người sử dụng lao động, bản thân phụ nữ với tư cách chủ thể lao động và toàn xã hội. Thông qua nhận thức, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và phải được cụ thể hóa trong từng bước chính sách để mục tiêu bình đẳng giới đi vào thực chất. Bên cạnh đó, với tư cách chủ thể lao động - phụ nữ cần chủ động, tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi số bằng việc chủ động học tập nâng cao trình độ, thích ứng với mọi hoàn cảnh và biến động của xã hội. Chỉ khi thực hiện tốt cả những tác nhân bên ngoài và nội lực tự thân bên trong của phụ nữ, khi ấy phụ nữ mới có cơ hội tham gia thị trường lao động một cách “tự nhiên” và ở mọi trình độ, mọi lĩnh vực. Khi đó, vị thế, vai trò của phụ nữ được khẳng định, nâng cao và bình đẳng giới khi đó sẽ trở thành tất yếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 -2030 (2021), Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ
2. Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), (2023). Báo cáo Phát triển Con người (HDR) toàn cầu 2021/22.
3. Cơ quan Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women), (2020), Báo cáo rà soát kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
4. CARE, Oxfam & SNV, (2018), Đánh giá độc lập về giới trong Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.
5. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), (2023), Báo cáo “Khoảng cách Giới Toàn cầu 2023”.
6. Hồ Hương (2023), Tuyên truyền để lao động nữ phòng tránh tác động nguy hiểm từ môi trường làm việc, bảo vệ sức khỏe, sức khỏe sinh sản. https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=73811, 08/3/2023, 08/8/2024.
7. ILO, ASEAN in transition (7/2016), How technology is changing jobs and enterprises,
8. Melanie Arntz, Terry Gregory, Ulrich Zierahn (6/2016). “The risk of Automation for Jobs in OECD countries
9. Frey, C.B. and M.A. Osborne (2015), Technology at work: the future of Innovation and Employment.
[1] Các ngành nghề mới xuất hiện trong các lĩnh vực ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet di động, công nghệ điện toán đám mây, robot trong công nghiệp và gia đình, xe không người lái, thiết bị bay không người lái, máy in 3D, công nghệ nano, thực tế ảo, phương pháp điều trị kỹ thuật số và máy học, các lĩnh vực dịch vụ ứng dụng kết nối internet vạn vật, nông nghiệp công nghệ cao.v.v..
[2] Frey, C.B. and M.A. Osborne (2015), Technology at work: the future of Innovation and Employment
[3] Melanie Arntz, Terry Gregory, Ulrich Zierahn (6/2016), “The risk of Automation for Jobs in OECD countries
[4] ILO, ASEAN in transition (7/2016), How technology is changing jobs and enterprises.
[5] Các lĩnh vực chủ yếu như lắp ráp ô tô; điện và điện tử; dệt may và giầy da; kinh doanh thuê ngoài và bán lẻ
[6] Theo ILO/ADB (2015), rủi ro được hiểu là những công việc có thể bị thay thế bằng các hệ thống, máy móc tự động hóa. Rủi ro cao là có xác suất bị thay thế trên 70%; rủi ro trung bình là có xác suất bị thay thế từ 30-70% và rủi ro thấp là có xác suất bị thay thế dưới 30%.
[7]. Hồ Hương (2023), Tuyên truyền để lao động nữ phòng tránh tác động nguy hiểm từ môi trường làm việc, bảo vệ sức khỏe, sức khỏe sinh sản. https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=73811.
[8] Hồ Hương (2023), Tlđd.
[9] Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 (2021), Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ.
[10] Hồ Hương (2023), Tlđd.
TIN MỚI NHẬN
Lịch giảng dạy
Văn bản Nhà trường
thời tiết
Hà Nội | |
Đà Nẵng | |
TP Hồ Chí Minh |