LỊCH CÔNG TÁC
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 27/01/2024 - 07/02/2025) (24/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 20/01/2024 - 24/01/2025) (17/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 13/01/2024 - 17/01/2025) (10/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 06/01/2024 - 10/01/2025) (03/01/2025)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 30/12/2024 - 03/01/2024) (27/12/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 23/12/2024 - 27/12/2024) (20/12/2024)
Nghiên cứu trao đổi
Lê Thị Thu Huyền - GV Khoa Lý luận cơ sở
Chuyển đổi số là một xu thế tất yếu khách quan diễn ra ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong công tác đảng, chuyển đổi số là vấn đề quan trọng và cần thiết. Chuyển đổi số thành công sẽ góp phần hiện đại hóa, dân chủ hóa các hoạt động trong công tác đảng hiện nay.
1. Một số vấn đề về chuyển đổi số trong công tác đảng
Chuyển đổi số trong công tác đảng là vấn đề mới, chưa có nhiều mô hình để nghiên cứu, học tập nhưng cũng không thể chậm trễ. Với sứ mệnh “đi trước, mở đường”, các tổ chức Đảng xác định cần tiên phong trong công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân và thực hành chuyển đổi số công tác đảng mà trước hết là công tác quản lý và sinh hoạt Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về chuyển đổi số trong công tác đảng, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 27/QĐ-TW ngày 10/8/2021 về chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Đảng giai đoạn 2021 - 2025, trong đó nhấn mạnh chuyển đổi số, cải cách hoạt động của các cơ quan Đảng bằng số hóa là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết nhằm hiện đại hóa, minh bạch hóa công tác đảng.
Trong quá trình lãnh đạo và tổ chức thực hiện, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đề các chủ trương, đường lối về chuyển đổi số Quốc gia, mà bản thân tổ chức Đảng cũng đang thực hiện quá trình chuyển đổi số nhằm thực hiện tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa công tác đảng; sử dụng thành tựu của công nghệ thông tin trong công tác quán triệt, triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, kiện toàn tổ chức Đảng; đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành ý thức tự giác, thành việc làm thường xuyên của cả tổ chức Đảng, của mỗi chi bộ và mỗi đảng viên; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần nâng cao tính tiên phong, tính chiến đấu của Đảng trong bối cảnh mới.
Từ quan niệm về chuyển đổi số - quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Vận dụng trong công tác đảng, có thể quan niện: Chuyển đổi số trong công tác đảng là quá trình các hoạt động chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và nghiệp vụ công tác đảng các cấp được thực hiện dựa trên dữ liệu và bằng công nghệ số.
Chuyển đổi số trong công tác đảng tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
Một là, phát triển hạ tầng số, hệ thống mạng, trung tâm dữ liệu, máy chủ, đường truyền phục vụ cho chuyển đổi số của đảng ủy vận hành chung với hạ tầng số của các cơ quan nhà nước nhằm sử dụng triệt để các hệ thống tập trung của các cơ quan nhà nước, tránh trùng lặp; tăng cường phương thức họp trực tuyến, sử dụng chung các phòng họp trực tuyến với cơ quan nhà nước; triển khai hệ thống chứng thực chữ ký số của Ban Cơ yếu Chính phủ trong các cơ quan Đảng.
Hai là, phát triển dữ liệu: Xây dựng cơ sở dữ liệu đảng viên, tổ chức đảng, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan Nhà nước, phục vụ đắc lực cho việc tra cứu, quản lý thông tin về đảng viên một cách nhanh chóng, chính xác, giúp cho việc chỉ đạo của các cấp ủy Đảng được thuận tiện, kịp thời. Xây dựng Hệ thống quản lý hồ sơ đảng viên kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu với hệ thống quản lý nhân sự của Nhà nước nhằm phục vụ cho việc quản lý hồ sơ đảng viên, quản lý các quyết định của đảng viên, quản lý tình trạng đảng viên, quản lý khen thưởng, kỷ luật, quản lý phát và cấp thẻ đảng viên, quản lý huy hiệu đảng, quản lý tổ chức cơ sở đảng.
Ba là, xây dựng nền tảng số: Xây dựng, triển khai Hệ thống quản lý văn bản điều hành đến các ban, cơ quan Đảng, các đảng ủy trực thuộc trên cơ sở mở rộng chức năng Hệ thống quản lý văn bản điều hành của tổ chức Đảng và sẵn sàng kết nối, liên thông với các hệ thống quản lý điều hành của các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương; từ các cấp ủy đảng đến đảng viên. Xây dựng Hệ thống thông tin tổng hợp, báo cáo phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy bảo đảm chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng được thực hiện qua môi trường mạng (trừ những văn bản mật).
2. Những thành tựu và hạn chế của chuyển đổi số trong công tác đảng hiện nay
2.1. Những thành tựu của chuyển đổi số trong công tác đảng hiện nay
Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng về chuyển đổi số qua thực tiễn thực hiện của các tổ chức Đảng đến nay đã có những thành tựu bước đầu. Trong đó, kết quả công tác chuyển đổi số tại một số tổ chức Đảng như: Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương; Đảng bộ Bộ Thông tin và Truyền thông; Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho thấy chuyển đổi số công tác đảng là tất yếu và mang lại hiệu quả thiết thực.
Ở các tổ chức đảng trong Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương, thực hiện Nghị quyết số 05/ĐUK của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương về chuyển đổi số trong các hoạt động công tác đảng giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Năm 2017, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/ĐUK về đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác đảng của Đảng bộ Khối, trong đó yêu cầu xây dựng hệ thống mạng thông tin diện rộng, kết nối đồng bộ hệ thống mạng thông tin; ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức các hội nghị trực tuyến, đăng tải, gửi và nhận văn bản kịp thời, an toàn, đảm bảo quy định; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào các hoạt động hành chính trong toàn Đảng bộ Khối, trước mắt cần tập trung xây dựng, vận hành một số thủ tục hành chính từ Đảng ủy Khối liên thông với các đảng ủy trực thuộc trên môi trường mạng như: phần mềm quản lý văn bản, tiếp nhận, chuyển phát thông tin, báo cáo; phần mềm quản lý đảng viên, cập nhật cơ sở dữ liệu đảng viên; phần mềm quản lý tài chính Đảng, thu, nộp đảng phí; phần mềm kiểm soát, theo dõi việc thực hiện nghị quyết của cấp trên. Thực hiện chủ trương trên, Đảng ủy Khối đã chỉ đạo xây dựng mạng thông tin diện rộng, kết nối đồng bộ mạng thông tin; ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức các hội nghị trực tuyến; đăng tải và gửi văn bản kịp thời, an toàn và đảm bảo quy định.
Đảng bộ Bộ Thông tin và Truyền thông là Đảng bộ đi đầu trong chuyển đổi số công tác đảng. Thông qua chuyển đổi số, các hoạt động lãnh đạo, điều hành và giám sát của Đảng ủy Bộ được thực hiện dựa trên dữ liệu và bằng công nghệ. Thực hiện bước đầu quá trình chuyển đổi số công tác đảng trong thời gian qua đã giúp giảm 80% công tác in ấn, sao lưu văn bản, tiết kiệm thời gian. Các văn bản số hoá, gửi đến các đảng bộ, chi bộ trực thuộc được nhanh chóng, kịp thời giúp rút ngắn thời gian xử lý, có thêm thời gian đầu tư đi sâu vào nội dung, nâng cao chất lượng công tác đảng tại 36 tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc chuyển đổi số công tác đảng của Đảng bộ có sự đóng góp tích cực của các đảng bộ, chi bộ trực thuộc, trong đó Văn phòng Đảng ủy chủ trì, phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện với các đơn vị chuyên môn về lĩnh vực và đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện tại các đảng ủy, chi ủy trực thuộc.
Mục tiêu đến năm 2025, Đảng bộ Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có 90% các văn bản, tài liệu chính thức (theo quy định) trao đổi giữa Đảng ủy Bộ với các đảng ủy, chi ủy trực thuộc và giữa các đảng ủy, chi ủy trực thuộc được gửi/nhận dưới dạng điện tử, có tệp điện tử gắn kèm và được xác thực điện tử. Đồng thời, 90% các văn bản, tài liệu chính thức (theo quy định) của các cơ quan khác gửi đến Đảng ủy Bộ được quét, lưu dưới dạng điện tử và cập nhật vào Hệ thống quản lý, điều hành của cơ quan; 100% cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên các cơ quan đảng trực thuộc xử lý công việc trên mạng máy tính thông qua Hệ thống quản lý, điều hành của cơ quan; 100% cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên được đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng về công nghệ thông tin… Bảo đảm các điều kiện về kỹ thuật để 100% văn kiện của Đảng, mục lục hồ sơ kho lưu trữ các cấp uỷ được quản lý trên mạng. Triển khai các Hệ thống thông tin chuyên ngành, Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp của các cơ quan đảng tới 100% đảng uỷ, chi ủy trực thuộc; tích hợp các hệ thống cơ sở hạ tầng và hệ thống thông tin của các cơ quan đảng theo mô hình kiến trúc thống nhất trong các cơ quan đảng; kết nối mạng máy tính tới 100% cấp uỷ trực thuộc; bảo đảm an toàn, an ninh thông tin phục vụ hoạt động của cơ quan đảng.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/ĐU ngày 19/7/2021 của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương về “Thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” bằng Nghị quyết số 03-NQ/ĐU ngày 11/01/2021 của Đảng ủy Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) “Về thực hiện chuyển đổi số trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam”. Từ thực tiễn thực hiện của Chi bộ Văn phòng EVN trong việc xây dựng và triển khai hiệu quả công tác chuyển đổi số, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19, giãn cách xã hội đặt ra thách thức lớn trong đảm bảo an toàn cho người lao động, đảm bảo công việc được thông suốt, hướng tới mục tiêu tăng năng suất lao động, cung cấp dịch vụ hành chính văn phòng không giấy mọi lúc, mọi nơi, trên mọi thiết bị đã tạo sự thuận tiện cho cán bộ công nhân viên và hướng tới minh bạch trong công tác quản lý. Tính đến 30/9/2021, tại EVN, 100% cán bộ công nhân viên đã sử dụng hệ thống văn phòng điện tử D-Office; 90% tỷ lệ văn bản được ký số; 99% văn bản được phát hành qua trục liên thông nội bộ tới các đơn vị EVN,... Cũng trong 9 tháng đầu năm 2021, đã có 444 cuộc họp trực tuyến; 468 hội nghị truyền hình đã được tổ chức, giảm đáng kể số lần các đơn vị phải trực tiếp tập trung hội họp tại trụ sở tập đoàn, giảm chi phí đi lại, lưu trú,...Ứng dụng họp trực tuyến Zoom Meeting kết nối đa điểm với các giải pháp đảm bảo an toàn thông tin, mã hoá bảo mật được sử dụng thường xuyên, nhất là từ khi có dịch bệnh COVID-19, có cuộc họp có thể kết nối hàng nghìn người cùng tham dự. Trong công tác quản trị văn phòng, từ công việc đăng ký văn phòng phẩm, tặng phẩm, đăng ký công tác,... đến các tiện ích văn phòng khác, đều được ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý tài sản, công cụ, dụng cụ tốt hơn, đồng thời tăng năng suất lao động. Đặc biệt, trong công tác thanh toán điện tử, Văn phòng tập đoàn Điện lực Việt Nam đang phối hợp với Công ty Viễn thông Điện lực và Công nghệ thông tin xây dựng hệ thống thanh toán điện tử.
Như vậy, từ thực tiễn chuyển đổi số công tác đảng tại các đơn vị nêu trên đã cho thấy những giá trị to lớn mà chuyển đổi số mang lại trong công tác quản lý và tổ chức sinh hoạt đảng, góp phần cải cách hành chính trong các cơ quan đảng, tăng hiệu quả trong công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản của Đảng đến đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn ra phức tạp, trong suốt 2 năm vừa qua.
2.2. Những hạn chế của chuyển đổi số trong công tác đảng hiện nay
Bên cạnh những kết quả đạt được, bức tranh chuyển đổi số nói chung và công tác chuyển đổi số công tác đảng nói riêng còn nhiều hạn chế, mà nguyên nhân chủ yếu là nguồn lực đầu tư hạn chế; thể chế, khung pháp lý, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số chưa đáp ứng yêu cầu; nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin trong tổ chức đảng chưa đáp ứng nhu cầu, các tổ chức đảng chưa có hệ thống thống nhất quản lý các nghiệp vụ. Nghiên cứu trực trạng chuyển đổi số trong công tác đảng, có thể nhận thấy những hạn chế cơ bản như sau:
Một là, về công tác hành chính, hiện nay phần lớn các tổ chức đảng thực hiện công tác hành chính bằng phương pháp thủ công, chưa được số hóa một cách có hệ thống.
Việc quản lý văn bản, tiếp nhận, chuyển phát thông tin, báo cáo; quản lý đảng viên, cập nhật cơ sở dữ liệu đảng viên; quản lý tài chính Đảng, thu, nộp đảng phí,; kiểm soát, theo dõi việc thực hiện nghị quyết của cấp trên thực hiện chủ yếu bằng tập hợp, lưu trữ bằng văn bản giấy. Điều này làm mất nhiều thời gian và công sức của lực lượng làm công tác hành chính của Đảng, nhất là ở cấp cơ sở. Bởi, ở cấp cơ sở, lực lượng này chủ yếu làm công tác kiêm nhiệm, thời gian làm công tác chuyên môn chiếm rất nhiều nên cũng ảnh hưởng đến công tác hành chính trong Đảng. Trên thực tế, có những tổ chức cơ sở đảng ứng dụng các phầm mền như Excel, Access… trong công tác hành chính, nhưng chưa có hệ thống quản đồng bộ cho tác vụ trên. Do đó, công tác hành chính trong tổ chức Đảng vẫn chủ yếu là thủ công.
Hai là, về tổ chức hoạt động tại các cơ sở đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ mang tính truyền thống, nhất là trong công tác phổ biến, tuyên truyền các văn bản của Đảng. Điều này có khả năng dẫn đến nhiều thiếu sót, trùng lặp thông tin, không kịp thời.
Sinh hoạt chi bộ là một trong những hoạt động chủ yếu của chi bộ, có tác động trực tiếp đến quá trình lãnh đạo của Đảng và quá trình nhận thức của mỗi đảng viên. Do đó, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thực chất là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng, trình độ mỗi đảng viên và là cơ sở, môi trường để phát huy dân chủ trong Đảng. Qua sinh hoạt chi bộ giúp cho cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng và của chi bộ; đồng thời, cấp ủy các cấp và chi bộ xác định rõ nguyên nhân cơ bản của những khuyết điểm, hạn chế, tồn tại của cấp ủy, chi bộ mình, từ đó có biện pháp cụ thể để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, của chi bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh. Chi bộ đảng không sinh hoạt thường kỳ xem như ngừng hoạt động. Nếu chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp thì chi bộ không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Trong sinh hoạt chi bộ, ngoài việc duy trì sinh hoạt định kỳ, chi bộ phải thực hiện sinh hoạt chuyên đề về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về nâng cao năng lực, kỹ năng công tác cho cán bộ, đảng viên; những vấn đề cán bộ, đảng viên đặc biệt quan tâm như việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các tệ nạn xã hội ở cơ quan, đơn vị; các giải pháp xây dựng nông thôn mới… Như vậy, việc tổ chức sinh hoạt chi bộ, về hình thức có sinh hoạt định kỳ và sinh hoạt chuyên đề với nội dung đa dạng và phong phú gắn với nhiệm vụ chính trị được giao.
Theo cách thức tổ chức sinh hoạt chi bộ truyền thống, cấp ủy các cấp nhận văn bản, nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy cấp trên, tổ chức nghiên cứu, thống nhất trong cấp ủy về phương thức phổ biến và cách thức thực hiện gắn với nhiệm vụ chính trị được giao; sau đó, triệu tập cuộc họp để phổ biến và thống nhất thực hiện. Trong nhiều kỳ sinh hoạt chi bộ với số lượng các văn bản nhiều, nội dung phong phú cần phải cập nhật mà trong một buổi sinh hoạt các văn bản được phổ biến bằng hình thức truyền thống như phô tô tài liệu gửi đến từng đồng chí đảng viên, phổ biến các văn bản trong cuộc họp chị bộ… sẽ mất nhiều thời gian, tốn công sức và dễ dẫn đến thiếu sót, trùng lập thông tin. Thực tế này dẫn đến chất lượng sinh hoạt chi bộ không cao, làm cho tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ chưa thể hiện rõ nét; tinh thần tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao nên chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, công tác xây dựng đảng vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Việc lựa chọn nội dung dẫn đến nội dung sinh hoạt nghèo nàn, hình thức; việc thông tin thời sự và phổ biến văn bản chỉ đạo của cấp trên còn dàn trải, không xác định rõ trọng tâm; đánh giá việc đăng ký học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của tập thể và cá nhân; chưa quan tâm tổ chức sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề, nhiều chi bộ còn lúng túng trong việc chọn nội dung, chủ đề sinh hoạt chuyên đề.
Nội dung đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong tháng chưa nêu rõ vai trò lãnh đạo của chi bộ, còn liệt kê công việc chuyên môn của cơ quan, đơn vị; không đề cập đến khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. Việc thảo luận không tập trung, khó khăn cho việc kết luận và ra nghị quyết. Nhiệm vụ của chi bộ đề ra trong tháng tới còn thiếu cụ thể, chưa bám sát nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan, đơn vị; phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa cụ thể, rõ ràng; một số chi bộ, hình thức sinh hoạt còn rập khuôn, đơn điệu, không khí sinh hoạt còn trầm lắng, nặng về phổ biến, quán triệt, triển khai nhiệm vụ chuyên môn.
Lịch sinh hoạt đảng tại các cơ sở vẫn dựa trên các phương thức truyền thống như qua giấy triệu tập, gọi điện hay lịch thông báo, thời gian sinh hoạt dành nhiều nội dung cho công tác phổ biến các văn bản của Đảng.
Ba là, việc quản lý đảng viên, nhất là quản lý hồ sơ đảng viên còn mang tính thủ công, có khả năng dẫn đến thông tin về đảng viên thiếu sót, không cập nhật ảnh hưởng đến việc lãnh đạo điều hành của cấp ủy trong việc xây dựng các kế hoạch về công tác cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên.
Quản lý hồ sơ đảng viên, đây là khâu quan trọng trong công tác quản lý đảng viên. Quản lý hồ sơ đảng viên giúp cấp ủy nắm rõ được lịch sử chính trị và chính trị hiện nay; sự thay đổi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, các thành tích cũng như những hình thức kỷ luật nếu có trong quá trình công tác của đảng viên. Những thông tin cụ thể về tình hình đội ngũ sẽ giúp cấp ủy xây dựng các kế hoạch về công tác cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên.
Quản lý tốt hồ sơ đảng viên, các chi bộ, đảng bộ cơ sở hiện nay được thực hiện trên hệ thống sổ sách theo quy định của Trung ương. Việc ghi chép sổ đòi hỏi phải sạch sẽ, khoa học, cập nhật. Các điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc lưu giữ, bảo quản hồ sơ phải được đảm bảo như giá, tủ, hộp, bìa bảo quản hồ sơ chống ẩm mốc, trang bị vật dụng cần thiết như máy tính, điều hòa, quạt thông gió, máy hút bụi… Việc nghiên cứu, khai thác hồ sơ được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, không để xảy ra tình trạng thất lạc hồ sơ. Tuy nhiên, việc bổ sung tài liệu hồ sơ đảng viên và thông tin trong hồ sơ lý lịch đảng viên được tiến hành thường xuyên nên dẫn đến tình trạng cập nhật chưa kịp thời, thiếu sự rà soát, đôn đốc thường xuyên. Trong đó, các tài liệu bị thiếu chủ yếu là các bản kiểm điểm cá nhân, phiếu bổ sung hồ sơ, các loại văn bằng, chứng chỉ, quyết định liên quan đến quá trình công tác, học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đảng viên. Việc sắp xếp các hồ sơ dễ dẫn đến tình trạng lộn xộn, không tiện cho việc khai thác, tra cứu. Nguyên nhân của những thiếu sót trên chủ yếu là do công tác quản lý hồ sơ đảng viên được thực hiện thủ công, chưa có sự hỗ trợ của các công cụ số hóa. Đồng thời chưa có quy định về số hóa hồ sơ đảng viên.
Chuyển đổi số trong công tác quản lý hồ sơ đảng viên sẽ góp phần làm cho tổ chức đảng thực hiện tốt các quy định về quản lý hồ sơ đảng viên. Số hóa các loại tài liệu trong hồ sơ đảng viên phải được thực hiện theo mẫu thống nhất của Ban Tổ chức Trung ương; lý lịch và những giấy tờ trong hồ sơ đảng viên phải được cập nhập có cấp ủy chứng nhận, ký tên, đóng dấu đầy đủ; sắp xếp hồ sơ, lý lịch đảng viên ngăn nắp, khoa học, dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, thuận tiện cho việc nghiên cứu. Hồ sơ có mục lục, thứ tự giúp cho việc phân biệt tài liệu dễ dàng; nghiên cứu phát hiện những điểm chưa rõ trong hồ sơ, lý lịch đảng viên tiến hành xác minh. Xây dựng ứng phần mềm cơ sở dữ liệu hồ sơ đảng viên cho phép các cấp ủy cơ sở có thể sử dụng để cập nhật, quản lý và tra cứu thông tin đảng viên của chi, đảng bộ mình thay thế cho sổ danh sách đảng viên hiện nay. Có quy định cho phép các cấp ủy trực thuộc sử dụng các phần mềm để theo dõi, quản lý công tác đảng viên trên máy tính thay thế cho các loại sổ sách.
Bốn là, hoạt động học tập nghị quyết của Đảng, viết bài thu hoạch còn nặng tính hình thức dẫn đến nhiều thông tin quan trọng không được quán triệt đến từng đảng viên.
Học nghị quyết của Đảng vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trước quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong học tập nghị quyết của Đảng, phải nắm vững, hiểu sâu những nội dung cơ bản của nghị quyết để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và để thường xuyên tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân, tạo sự đồng thuận trong thực hiện nghị quyết của Đảng. Cán bộ, đảng viên lười học nghị quyết của Đảng là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, không học hoặc học qua loa sẽ dẫn đến hiểu không đầy đủ, hiểu sai nghị quyết của Đảng, nói, viết và làm trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, không đủ bản lĩnh phản bác những quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nhận thức vai trò quan trọng của hoạt động học tập nghị quyết của Đảng, thời gian qua việc học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng tiếp tục được cấp ủy các cấp quan tâm, có nhiều đổi mới, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số vấn đề đặt ra cần có giải pháp khắc phục, đó là: Một số cấp ủy có biểu hiện làm lướt, làm cho xong; việc học tập nghị quyết thường trên cơ sở phổ biến lại cho cán bộ, đảng viên cấp dưới theo đề cương có sẵn cho mọi đối tượng, thông tin một chiều, chưa gắn với thực tiễn, chủ yếu dừng ở khâu báo cáo những nội dung của nghị quyết mà chưa dành thời gian để nghiên cứu, thảo luận nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp ủy; công tác tổ chức quản lý cán bộ, đảng viên học nghị quyết chưa chặt chẽ; tài liệu phục vụ học tập nghị quyết không đầy đủ; thời gian học tập nghị quyết chưa tương xứng với lượng kiến thức trong nghị quyết; tinh thần, thái độ học tập của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nghiêm túc; điều kiện cơ sở vật chất có nơi chưa đáp ứng yêu cầu…
3. Những giải pháp tăng cường công tác chuyển đổi số trong công tác đảng hiện nay
3.1. Tăng cường sự chỉ đạo của tổ chức đảng các cấp đối với công tác chuyển đổi số
Để thực hiện tốt cải cách hành chính trong công tác đảng cần có sự quyết tâm, nỗ lực, tính sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự quan tâm và trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cải cách hành chính của người đứng đầu các ban đảng cấp ủy các cấp; ngoài ra cần sự phối hợp chặt chẽ của các cấp ủy cơ sở trong quá trình liên hệ, thực hiện các thủ tục hành chính, phát hiện, bổ sung, đề xuất phương hướng giải quyết những điểm còn bất cập. Nhưng quan trọng hơn là Trung ương cần có các chủ trương, văn bản chỉ đạo mạnh mẽ về cải cách hành chính trên tất cả các mặt công tác xây dựng Đảng và nhất là cải cách hành chính trên lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng; cần xây dựng hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu hồ sơ đảng viên (số hóa hồ sơ, hoàn thiện các phương thức thống kê số liệu, cho phép quản lý dữ liệu hồ sơ đảng viên đến cơ sở để thay thế cho sổ danh sách đảng viên), sớm ban hành bộ thủ tục hành chính số liên quan đến lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng làm cơ sở để các địa phương tổ chức triển khai thực hiện.
Thực hiện chuyển đổi số trong công tác hành chính của tổ chức Đảng là giải pháp quan trọng góp phần vào sự thành công của công tác cải cách hành chính trong tổ chức xây dựng Đảng. Qua đó, giúp làm rõ quy trình, thủ tục nghiệp vụ công tác tổ chức, loại bỏ những quy trình, thủ tục lạc hậu, khắc phục cách làm tùy tiện, chưa khoa học của một số cấp ủy, cán bộ chuyên trách; cụ thể hóa các khâu, các bước và nội dung của từng bước trong xây dựng tổ chức đảng và đảng viên sẽ giúp các đảng bộ, chi bộ cơ sở nắm vững quy trình, thủ tục lập, giải thể chi bộ trực thuộc, quy trình, thủ tục bổ sung, chuẩn y cấp ủy viên; quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên, xóa tên, khai trừ đảng viên…Từ đó, góp phần nâng cao uy tín của Đảng và các cấp ủy, tổ chức đảng, đối đảng viên và quần chúng.
3.2. Xây dựng hệ thống quản lý đảm bảo hiệu quả chuyển đổi số công tác đảng
Xây dựng hệ thống phần mềm quản lý đồng bộ đảm bảo hiệu quả chuyển đổi số công tác đảng mà trước hết là hệ thống quản lý hồ sơ đảng viên, hệ thống quản lý lịch sinh hoạt đảng. Trong đó, trên cơ sở ứng dụng phần mềm quản lý lịch các cuộc họp theo hướng ngày càng khoa học, hợp lý, hiệu quả và đạt chất lượng cao. Trước hết là quản lý về mặt thời gian sinh hoạt theo quy định của Điều lệ Đảng: Trước mùng 5 hàng tháng, chi bộ đăng ký ngày sinh hoạt, tổ chức sinh hoạt chậm nhất trước ngày 7 hằng tháng và báo cáo, tự chấm điểm gửi lên hệ thống trước ngày 18 hàng tháng. Về chất lượng và hình thức họp, các tổ chức đảng chỉ tổ chức các cuộc họp trực tiếp thật cần thiết, giảm thiểu các cuộc họp để thay vào đó là thực hiện cơ chế trao đổi thông tin tức thời, gửi văn bản hỏi, các cuộc họp trực tuyến... Quy định các trường hợp được tổ chức hội họp; những trường hợp người đứng đầu được lựa chọn, cân nhắc họp hay không họp; những trường hợp không tổ chức hội họp. Những cuộc họp chỉ để thảo luận, trao đổi ý kiến, hoặc tham luận thì không tổ chức cuộc họp mà gửi phiếu, nêu vấn đề hoặc gửi bản thảo để xin ý kiến. Sau đó tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu và ban hành. Khi các công việc, nhiệm vụ được giải quyết theo đúng thẩm quyền, các cấp ủy làm hết trách nhiệm của mình thì sẽ giảm thiểu số lượng các cuộc họp không cần thiết. Cùng với đó và việc ứng dụng phần mền trong việc gửi - nhận văn bản và thư điện tử công vụ đối với các giao dịch không ở chế độ “mật” nhằm đảm bảo nhanh chóng, thông suốt, tránh thất lạc; tất cả tài liệu họp, hội nghị được chuyển trước cho đại biểu dự hội nghị qua địa chỉ thư điện tử để nghiên cứu, giảm thiểu sử dụng văn bản giấy, góp phần giảm chi phí phát hành văn bản và hình thành cơ sở dữ liệu quản lý văn bản đi - đến đầy đủ, tiện ích.
Thông qua việc xem báo cáo kết quả sinh hoạt trên hệ thống quản lý, đối chiếu với sổ nghị quyết chi bộ các tháng, đảng ủy cấp trên nắm bắt được hoạt động của các chi bộ. Đồng thời cũng kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn, nhắc nhở một số chi bộ, đảng bộ chưa làm tốt. Nắm được lịch đăng ký sinh hoạt, đảng bộ cấp trên cử cán bộ xuống cơ sở dự sinh hoạt hoặc kiểm tra đột xuất thuận lợi hơn. Cùng với đó, đảng bộ cấp trên có thể theo dõi, nắm tình hình, tiếp thu ý kiến đóng góp, đề xuất, kiến nghị của các chi bộ, đồng thời hướng dẫn, giải đáp thắc mắc về nghiệp vụ công tác đảng. Qua đó góp phần đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức và các cấp ủy đảng…Đối với đảng viên trong chi bộ, việc xem thông báo trên hệ thống quản lý giúp họ nắm bắt đúng lịch và các công việc, các nhiệm vụ phải thực hiện trong sinh hoạt chi bộ, tránh việc nhầm lẫn, sai sót.
Như vậy, để quản lý và nâng cáo chất lượng sinh hoạt chi bộ, làm cho sinh hoạt chi bộ thực sự phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn đảng viên tham gia, khắc phục sự nhàm chán, xơ cứng, nghèo nàn, bệnh hình thức trong sinh hoạt là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Thực hiện thành công nhiện vụ này thì chi ủy, đứng đầu là bí thư chi bộ vừa phải nắm vững nguyên tắt vừa phải linh hoạt sáng tạo trong điều hành, tổ chức sinh hoạt; mỗi đảng viên cần thể hiện sự chủ động, tích cực và trách nhiệm của mình để cuộc sinh hoạt chi bộ diễn ra sôi nổi, có chất lượng, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của chi bộ, cơ quan, đơn vị. Cùng với đó là việc thực hiện số hóa các văn bản (trừ những văn bản mật); số hóa quy trình sinh hoạt đảng sẽ góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đây là một trong những giải pháp xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, giải pháp kỹ thuật góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt nhằm khắc phục tình trạng sinh hoạt chi bộ mang tính hình thức.
3.3. Ứng dụng chuyển đổi số trong công tác học tập nghị quyết của Đảng
Hoạt động học tập nghị quyết của Đảng các cấp là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân, là tiền đề cho sự thành công trong tổ chức thực hiện nghị quyết, đảm bảo nghị quyết đi vào cuộc sống. Bởi, nghị quyết của Đảng là những định hướng phát triển đất nước, là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, thể hiện ý chí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, sau khi nghị quyết được ban hành, cấp ủy các cấp phải tổ chức học tập, quán triệt trong cán bộ, đảng viên và tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của việc học tập nghị quyết của Đảng. Người cho rằng: "Cần nghiên cứu sâu để thấm nhuần tinh thần nghị quyết; nghiên cứu càng sâu thì càng thêm phấn khởi, hoàn thành nhiệm vụ càng tốt. Nhưng cán bộ thấm nhuần chưa đủ. Phải làm cho tinh thần nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân, làm cho mọi người thấy hết thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao cho mọi người vui vẻ, hăng hái làm tròn nhiệm vụ, vì khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ vượt được".
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, tuyên truyền, triển khai nghị quyết của Đảng phải giải quyết đồng bộ nhiều khâu. Trong đó, cấp ủy các cấp có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên và tuyên truyền đến nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của công tác xây dựng Đảng, khắc phục bệnh lười học nghị quyết ở một số cán bộ, đảng viên. Gắn liền với đó là phải chú trọng tiếp tục đổi mới phương pháp trong học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện nghe, nhìn hỗ trợ trong thuyết trình, tổ chức học tập trực tuyến; tăng cường các hình thức trao đổi, thảo luận trong học tập nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt các nghị quyết của Đảng phải gắn với thực tiễn của địa phương, đơn vị, phù hợp với từng nhóm đối tượng để cán bộ, đảng viên và nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng khi thực hiện.
Như vậy, chuyển đổi số trong tổ chức hoạt động học tập nghị quyết của Đảng với việc số hóa nội dung nghị quyết và các tài liệu học tập nghị quyết giúp cán bộ, đảng viên có thể học tập ở mọi lúc, mọi nơi; ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin để xây dựng các bộ tài liệu đa phương tiện tuyên truyền nghị quyết của Đảng tăng sự lôi cuốn, hấp dẫn; tổ chức việc học tập nghị quyết trực tuyến nhằm tiết kiệm thời gian, thống nhất và chuẩn hóa nội dung tuyên truyền phổ biến trong các cấp ủy đảng; ứng dụng các phần mềm quản lý các bài thu hoạch...
Chuyển đổi số ở Việt Nam là tất yếu. Đây chính là cuộc cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Trong công tác đảng, việc chuyển đổi số sẽ góp phần giúp công tác quản lý và sinh hoạt đảng. Mặc dù cuộc cách mạng này còn rất mới mẻ, nhiều khó khăn và phức tạp nhưng chúng ta tin tưởng sẽ thành công. Bởi, sự nghiệp đó sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quyết tâm, đồng lòng của cả hệ thống chính trị trong xây dựng và triển khai mô hình lãnh đạo và quản trị mới, tận dụng sức mạnh và sự phát triển của công nghệ số.
TS. Lê Thị Thu Huyền - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
2. Trần Mai Hiến (2020), Kinh tế số và cơ hội để Việt nam bứt phá. Truy cập từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/815928/kinh-te-so-va-co-hoi-de-viet-nam-but-pha.aspx, ngày 15/7/2022.
3. Bích Khuê (2021), Chuyển đổi số, đổi mới trong công tác đảng. Truy cập từ https://www.mic.gov.vn/mic-2020/Pages/TinTuc/146251/Chuyen-doi-so--doi-moi-trong-cong-tac-dang.html, ngày 16/7/2022.
4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác chuyển đổi số - thực tiễn tại Văn phòng EVN. Truy cập từ https://www.evn.com.vn/d6/news/Tang-cuong-su-lanh-dao-cua-Dang-trong-cong-tac-chuyen-doi-so-thuc-tien-tai-Van-phong-EVN-142-203-29492.aspx, ngày 16/7/2022.
TIN MỚI NHẬN
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 27/01/2024 - 07/02/2025) (24/01/2025)
- BẾ GIẢNG LỚP TRUNG CẤP LLCT K.15B-24 (TW4) (18/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 20/01/2024 - 24/01/2025) (17/01/2025)
Lịch giảng dạy
Văn bản Nhà trường
thời tiết
Hà Nội | |
Đà Nẵng | |
TP Hồ Chí Minh | |