LỊCH CÔNG TÁC
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 27/01/2024 - 07/02/2025) (24/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 20/01/2024 - 24/01/2025) (17/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 13/01/2024 - 17/01/2025) (10/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 06/01/2024 - 10/01/2025) (03/01/2025)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 30/12/2024 - 03/01/2024) (27/12/2024)
- Lịch công tác tuần ( Từ ngày 23/12/2024 - 27/12/2024) (20/12/2024)
Nghiên cứu trao đổi
TS Lê Thị Thu Huyền - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
1. Giá trị, tính khoa học và tính thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin vượt lên trên những nguyên lý, khái niệm, phạm trù, quy luật và phương pháp luận, là “chìa khóa” giải đáp những vấn đề lý luận, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử, dẫn đường cho nhân loại tiến bộ thực hiện mục tiêu giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, mọi sự tha hóa. Không chỉ vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin còn có giá trị bền vững và tính thời đại. Bởi lẽ, bản thân nó là học thuyết phát triển và nhân văn, luôn hướng tới sự tiến bộ của con người và xã hội. Những giá trị cơ bản đó thể hiện sinh động, nhất quán và được thể hiện sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, các nước tư bản có sự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng bản chất của nó vẫn không hề thay đổi. Sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản không thể thay thế được những mâu thuẫn nội tại. Những hạn chế, khuyết tật vốn có của chủ nghĩa tư bản, như: xung đột, khủng bố, bạo lực, bất ổn, khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội,... vẫn diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp, nhất là trong điều kiện đại dịch Covid - 19 vừa qua. Với những mâu thuẫn mang tính bản chất đó, theo sự vận động của quy luật xã hội, xu hướng diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C.Mác sống mà cho đến tận ngày nay.
Khi nói về học thuyết Mác, Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác”[1]. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào. Đồng thời, là học thuyết mở, phát triển. Vì thế, không thể tuyệt đối hóa các mặt, việc tuyệt đối hóa sẽ dẫn chúng ta đến những sai lầm và làm mất tính khoa học, toàn diện của nó. Học thuyết Mác “kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng...”[2]. Ph.Ăngghen, cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[3]. Do đó, không thể coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn, bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu không muốn lạc hậu đối với cuộc sống.
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà cốt lõi là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua cách mạng xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, được quyết định bởi những mâu thuẫn nội tại của các hình thái kinh tế - xã hội ấy. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được xem như là một cơ thể sống, một cơ cấu xã hội hoàn chỉnh, luôn biến động bởi sự tác động tổng hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong sự tác động đó, con người luôn giữ vai trò trung tâm và quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Bởi thế, C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”[4]. Thực tiễn phát triển của nhân loại cho thấy, sự tổng kết của C.Mác là hoàn toàn đúng đắn, vượt xa thời đại mà ông sống về tư duy và tầm nhìn. Lý luận trên là nền tảng hình thành nhận thức về xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại và xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những đặc điểm về bản chất, mâu thuẫn, xu hướng vận động, phát triển cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hiện thực.
Trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với những thành tựu của công nghệ vật lý, công nghệ số, công nghệ sinh học…, kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng và tạo ra giá trị gia tăng cao, giá trị thặng dư được tạo ra ngày càng nhiều hơn cho nhà tư bản. Vì thế, vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, người lao động và đời sống được cải thiện, đề cao hơn. Nhưng, trong xã hội tư bản, việc đó không làm thay đổi địa vị của giai cấp công nhân và người lao động. Họ vẫn là “công cụ” tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Theo chủ nghĩa Mác, bản chất và mục đích sâu xa của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người, tạo điều kiện để con người được tự do và phát triển toàn diện. Quan điểm này vừa bao hàm giá trị khoa học, biện chứng, vừa thấm đẫm tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Chủ nghĩa Mác, bằng lý luận hoàn bị của mình, khẳng định việc thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, người lao động là tất yếu khách quan, thay thế cho chế độ tư bản chủ nghĩa vốn đã bộc lộ quá nhiều khiếm khuyết, mâu thuẫn; đồng thời, luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước lạc hậu... Phương pháp tiếp cận khoa học, biện chứng, với quan điểm cách mạng và nhân văn về bản chất, mục tiêu, động lực phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa là những giá trị không thể phủ nhận của chủ nghĩa Mác.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã bổ sung, phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thành nên chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự bổ sung, phát triển đó của V.I. Lênin diễn ra toàn diện, cả trên lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và ứng dụng vào thực tiễn cách mạng nước Nga, sáng lập ra học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và đưa ra luận điểm: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước lạc hậu. Điều này tiếp tục làm giàu thêm tri thức, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp tục khẳng định tính mở của học thuyết Mác và được chứng minh trong thực tiễn bởi thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa vạch thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Hồ Chí Minh đã tiếp tục kế thừa, phát triển, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngay khi tiếp cận bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin, Người xác định, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng dân tộc, giai cấp và con người. Nhận thức đầy đủ, khoa học, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Là người tiên phong thức tỉnh dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, Người khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng ở chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc; nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể chủ động đứng lên, “đem sức ta mà giải phóng cho ta” và có thể giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc.
Từ hoàn cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo, thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế. Vì thế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cách mạng nước ta. Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ, đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan điểm này đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, là cơ sở để xác định bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hồ Chí Minh tiếp thu, chuyển hóa và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, tạo nên hệ thống tư tưởng, tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt tài tình của Ðảng, nhất là trong 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với những kết quả đạt được đã khẳng định giá trị, sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với đó, thực tiễn đổi mới, cải cách, mở cửa ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, những chuyển biến tích cực tại các nước tư bản chủ nghĩa và nỗ lực phát triển không ngừng của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới cũng là minh chứng cho giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Bởi thế, Đảng ta luôn kiên định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[5]. Với vị trí, vai trò quan trọng đó, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là đối tượng và mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
2. Những quan điểm sai trái, thù địch chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhằm phủ nhận vai trò, sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch đã tập trung tuyên truyền, làm thay đổi ý thức hệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá, công kích, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và công cuộc đổi mới của Đảng ta. Có thể nhận diện qua những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, chúng ra sức phủ nhận, hạ thấp vai trò, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên thế giới quan phản khoa học, giới hạn sức sống của một học thuyết với sự tồn tại ở một giai đoạn cụ thể mà không đánh giá những giá trị mang tính vượt thời đại. Các thế lực thù địch, phản động viện dẫn lý do chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã kết thúc, thời đại ngày nay với đặc điểm là sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Từ đó, đưa ra luận điệu chủ nghĩa Mác - Lênin không bắt kịp, không phản ánh đúng sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ hiện đại; các nhà sáng lập học thuyết Mác, lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây, nên lý luận của các ông không thể giải quyết được các vấn đề có tính lịch sử, thời đại của các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam; học thuyết Mác đánh giá không đầy đủ về sự tồn tại tương đối lâu dài của chủ nghĩa tư bản, dự đoán quá sớm về tiến trình lịch sử của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới; chưa đánh giá đầy đủ vị trí, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc trong quan hệ với lợi ích giai cấp; hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn chưa đầy đủ...
Hai là, các thế lực thù địch, phản động tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều phương diện nhằm hạ thấp uy tín, sức ảnh hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhân dân ta. Chúng cho rằng Hồ Chí Minh không có tư tưởng của riêng hay tư tưởng của Người không được coi là một hệ thống. Dựa vào những luận điểm của Người có tính bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và bao hàm sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nền cộng hòa Pháp và Mỹ, chúng quy kết, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa, chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, không mang bản chất mácxít, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng cố tình phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại. Sự thật là, chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam.
Ba là, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; chúng cho rằng tất yếu phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Những luận điệu đó bắt nguồn từ việc cố ý lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất, giữa tính đặc thù với tính phổ biến, giữa cái riêng với cái chung. Chúng cho rằng, chủ nghĩa tư bản là con đường duy nhất để phát triển, cố tình biến những khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản thành ưu điểm, thần thánh hóa chủ nghĩa tư bản; khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội, nhất là khuyết điểm xẩy ra ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quy kết thành bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận tính hợp pháp, tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng Đảng đã hết vai trò lịch sử; Đảng duy nhất cầm quyền là không chính đáng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu,...
Cùng với những nội dung trên, sự tấn công của các thế lực thù địch, phản động còn được thực hiện với phương thức, công cụ ngày càng tinh vi hơn. Trước đây, chúng xuyên tạc, phủ nhận trực tiếp nền tảng tư tưởng của Đảng, hoặc tấn công cá nhân, bôi nhọ đời tư các nhà kinh điển, các lãnh tụ thì trong thời gian qua, bên cạnh các phương thức cũ, chúng tấn công về mặt lý luận ngày càng nhiều hơn. Ngày càng có nhiều bài viết dài, sâu, đứng trên lập trường, cách tiếp cận trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ở một mức độ tinh vi hơn, nhiều lý thuyết được dịch, truyền bá vào Việt Nam nhằm pha loãng, dần thay thế cho hệ tư tưởng chính thống. Một số kẻ cơ hội chính trị hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa dân chủ xã hội, cho rằng chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải đạt được thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản. Một số người phản bác khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa, phản đối chuyên chính vô sản; phê phán những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị thặng dư,... Một số khác lại cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống chưa hoàn chỉnh, các lý luận về mặt triết học, kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều điểm lạc hậu. Tất cả mưu toan thâm hiểm và tinh vi đó cần phải kịp thời bóc trần và đấu tranh quyết liệt để ngăn chặn.
Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch để tìm giải pháp khoa học bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài nhằm tiếp tục khẳng định giá trị, tính khoa học, tính cách mạng cùng những giá trị nhân văn mang tính thời đại của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
3. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của cả hệ thống chính trị, là lương tri của người cách mạng
Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là công việc liên tục, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Trong tình hình mới, để thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng yếu này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” ngày 22/10/2018. Nghị quyết xác định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Bởi, xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[6].
Công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện diễn ra trong bối cảnh thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp và thay đổi nhanh chóng. Để công cuộc này thành công, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải dành nhiều tâm sức, trí tuệ với những giải pháp khoa học, thiết thực, hiệu quả, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống toàn diện của Nhân dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng
Bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thực tiễn, C. Mác từng khẳng định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[7]. Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Với tư cách là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng vững trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước ta, Nhân dân ta đã giành được những thành tựu vượt bậc trên tất cả các phương diện:
Trên phương diện kinh tế - xã hội, những thành tựu đổi mới góp phần nâng cao chất lượng đời sống Nhân dân. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội đã khẳng định đường lối phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Cùng với đó, những diễn biến của đại dịch Covid-19, sự phát triển của khoa học - công nghệ cùng những diễn biến khó lường trong quan hệ quốc tế càng cho thấy: Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhân dân Việt Nam lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam có nền chính trị - xã hội ổn định trên nền tảng cơ sở hạ tầng vật chất ngày càng hoàn thiện, dân trí ngày càng cao, các quyền tự do, dân chủ ngày càng được thực hành rộng rãi trong xã hội. Những giá trị này khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Coi trọng tự do, dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội chính là thành công của tất cả cán bộ, đảng viên, của mọi người dân Việt Nam. Đây là nền tảng để có được sự ổn định của đất nước, đại đoàn kết dân tộc, là tiền đề để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta phát huy lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha quan tâm đến tình hình đất nước, có trách nhiệm gắn với vận mệnh của dân tộc, đất nước. Nhân dân không chỉ biết đến quyền lợi, mà còn thấu hiểu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình; không chỉ biết đến cá nhân mà còn biết đến cộng đồng, đến cái chung; không chỉ quan tâm đến bản thân mà còn quan tâm đến người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống quý báu của dân tộc và chủ nghĩa nhân đạo của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, nền tảng tư tưởng của Đảng ngấm sâu và lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng của Nhân dân.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế. Điều đó khẳng định vị thế, cơ đồ và tiềm lực của đất nước chúng ta, là niềm tự hào mà chúng ta đạt được dưới dự lãnh đạo tài tình của Đảng. Đồng thời, xu thế đó tạo cơ hội để Việt Nam tận dụng, phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại cho sự phát triển toàn diện đất nước. Việt Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, rộng mở, bao dung cũng rất thích hợp với yêu cầu hội nhập của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu, bám rễ được ở Việt Nam, hòa quyện với văn hóa Việt Nam chính nhờ tinh thần đó.
Việt Nam có nền quốc phòng, an ninh vững chắc, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, trở thành điểm thu hút đầu tư, du lịch hấp dẫn của thế giới.
Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện của sự nghiệp đổi mới là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, khẳng định sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong sáng về đạo đức, chuẩn mực về tác phong để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh là yêu cầu được đặt ra ngay từ khi Đảng được thành lập, nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Thực hiện điều đó, mỗi tổ chức Đảng trong toàn Đảng, mỗi cán bộ đảng viên và cấp ủy các cấp, đặc biệt người đứng đầu cấp ủy phải thực sự có trí tuệ, có bản lĩnh về chính trị, tư tưởng, giữ nghiêm kỷ luật của tổ chức và gương mẫu về lối sống, có một nhân cách cao thượng, bao dung, vị tha, thân ái, nghĩa tình với đồng chí, đồng đội. Đó là cách bảo vệ và tự bảo vệ Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng. Có được điều đó thì không một thế lực nào có thể công phá được, vừa hợp lòng dân, vừa là vấn đề then chốt về xây dựng Đảng trên các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, là phương thức hữu hiệu nhất làm các thế lực thù, địch tự thất bại.
Kiên quyết đấu tranh “ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đây là công việc cấp bách và phải được tiến hành thường xuyên trong từng tổ chức đảng, ở mỗi cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt nhiệm vụ sống còn này, cần tập trung vào một số nội dung sau: Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hóa cho cán bộ, đảng viên; đặc biệt coi trọng công tác cán bộ trong Đảng; thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình, phê bình; phát huy vai trò nêu gương, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt; kiên quyết trong công tác phòng, chống tham nhũng. Bởi, tham nhũng và suy thoái về chính trị cũng như đạo đức đang trở thành vật cản lớn cho thành công của sự nghiệp đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ; tăng cường kỷ luật, kiểm tra, giám sát trong Đảng.
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực tiễn sinh động
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nuôi dưỡng, bổ sung, phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Thực tiễn hằng ngày là nguồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cần đấu tranh với các hình thức cực đoan của các chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Chẳng hạn, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe dọa đến hòa bình, thịnh vượng chung của thế giới…
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải nhận thức sâu sắc đó là kết quả đúc kết từ tinh hoa trí tuệ nhân loại và dân tộc. Do đó, nó phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện nay, qua đó hấp thụ, chuyển hóa, sử dụng những giá trị khoa học, hợp lý để phục vụ cho dân tộc và cộng đồng. Có thể đúc kết giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là của con người, cho con người và vì con người, bởi thế nên không xa lạ với những giá trị của thế giới đương đại như tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,...
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta không nên chỉ tập trung vào những điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết khác mà còn phải nhìn thấy những điểm tương đồng, dù cho cách tiếp cận có thể khác nhau. Có như vậy, chúng ta mới có thể lý giải các học thuyết khác, phê phán và tiếp thu các học thuyết ấy nhằm làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng mácxít và giải quyết tốt hơn những vấn đề do thực tiễn đặt ra. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp them sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào sơ cứng, trì trệ, lạc hậu sơ với cuộc sống”[8].
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, “điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như thực tiễn của khoa học”[9]. Hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự chống phá ngày càng tinh vi hơn của các thế lực thù địch, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn thể Nhân dân với trí tuệ, tâm huyết và các giải pháp khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1999): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. V.I. Lênin (1980): Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mácxcơva.
5. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
[1] V.I. Lênin (1980): Toàn tập, t.23, Nxb. Tiến bộ, Mácxcơva, tr.50.
[2] V.I. Lênin: Sđd, t.1, tr. 421.
[3] C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1999): Toàn tập, t.36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 796.
[4] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 257.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội , tr. 88.
[6]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , tr. 109.
[7] C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 232.
[8] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.37.
[9] Nguyễn Phú Trọng (2022), sđd, tr.37.
TIN MỚI NHẬN
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 27/01/2024 - 07/02/2025) (24/01/2025)
- BẾ GIẢNG LỚP TRUNG CẤP LLCT K.15B-24 (TW4) (18/01/2025)
- Lịch công tác tuần (Từ ngày 20/01/2024 - 24/01/2025) (17/01/2025)
Lịch giảng dạy
Văn bản Nhà trường
thời tiết
Hà Nội | |
Đà Nẵng | |
TP Hồ Chí Minh |