Truy cập nội dung luôn

  Nghiên cứu trao đổi

SỰ VẬN DỤNG PHƯƠNG CHÂM VẬN ĐỘNG VĂN HÓA TRONG ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM NĂM 1943 VỚI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
Ngày đăng 27/02/2023 | 6:35 AM  | View count: 523

Ths. Nguyễn Thị Ngân - Phó Trưởng khoa Lý luận cơ sở

      Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Trong suốt chặng đường 93 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn hóa và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. 

      Ý thức sâu sắc về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức thống trị của thực dân Pháp xâm lược, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 - 28/2/1943 tại thôn Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội đã thông qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng lúc đó khởi thảo. Đề cương đã đi vào lịch sử như một bản cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng ta trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã mở ra một thời kỳ mới, tập hợp đông đảo các nhà hoạt động văn hóa trong cuộc chiến đấu của cả dân tộc, kết hợp chặt chẽ văn hóa với chính trị, cách mạng với văn hóa, đóng góp một phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt cho sự vận dụng vào những nội dung cụ thể để tiến hành xây dựng làng văn  hoá, khu phố văn hoá….trong sự nghiệp tổ chức xây dựng đời sống văn hoá của chúng ta ngày nay.

      Đề cương văn hóa Việt Nam (sau đây viết tắt là ĐCVHVN) được viết ngắn gọn với khoảng 1.500 chữ, nhưng nội dung đã bao quát cả 5 vấn đề lớn: “cách đặt vấn đề”, “lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”, “nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật – Pháp”, “vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam” và “nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mác-xít”. Cách trình bày đó phù hợp với  điều kiện hoạt động bí mật của Đảng lúc bấy giờ: cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng phải di chuyển luôn, không có bộ phận nghiên cứu giúp việc dự thảo văn bản để rà soát nhiều lần, người lãnh đạo phải tự viết, tự làm lấy tất cả, không có tài liệu để tham khảo…Cách trình bày của ĐCVHVN cũng dễ chuyển tải đến giới văn hóa văn nghệ và đông đảo quần chúng nhân dân trong điều kiện ĐCVHVN không được in ấn công khai, không được phổ biến bằng các phương tiện báo, đài hoặc tổ chức các lớp nghiên cứu học tập để quán triệt mà chủ yếu bằng truyền tay, truyền miệng từ người này đến người khác để ai đến với ĐCVHVN đều có thể hiểu được, nhớ được, làm được.

      ĐCVHVN đưa ra phương châm vận động văn hóa chính là ba nguyên tắc vận động văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Về sau ba nguyên tắc này được coi là ba khẩu hiệu vận động văn hóa. Đến hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II (năm 1948): Văn hóa dân chủ mới Việt Nam phải gồm đủ 3 tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Ba tính chất của nền văn hóa Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức nêu ra trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951: Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng .Và như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các thời kỳ cách mạng Việt Nam, tính chất của nền văn hoá hiện đại mà chúng ta đã và đang xây dựng và phát triển là “tiên tiến”“đậm đà bản sắc dân tộc” cũng chính là nội dung cơ sở, nền tảng từ những  nguyên tắc của ĐCVHVN.

      Tính chất dân tộc hóa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Trải qua gần một thế kỷ thống trị Việt Nam, thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách văn hóa tư sản và đế quốc, du nhập những nhân tố văn hóa tiêu cực, ra sức truyền bá cái gọi là nền văn minh và sự giàu có của Pháp, đề cao chính sách thuộc địa, gieo rắc vào đầu óc người trí thức Việt Nam tinh thần phục Pháp. Vì vậy, nguyên tắc này có tác dụng thúc đẩy văn hóa  trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, động viên, tập hợp tầng lớp trí thức dũng cảm nhận lấy trách nhiệm cao cả trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam. Cho đến nay trong sự phát triển của mỗi một dân tộc, mỗi một quốc gia, chưa bao giờ tính dân tộc, bản sắc dân tộc lại được đề cao và quan tâm như bây giờ, nhất là đối với vấn đề đã được cảnh báo “nhất thể hoá” “đồng phục văn hoá” “làng toàn cầu hoá”…

      Đại chúng hóa là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng. Trong hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ, một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, quyền kinh tế và chính trị nằm trong tay đế quốc và một số ít người bản xứ thì các hoạt động văn hóa, nghệ thuật chỉ cốt phục vụ cho giai cấp thống trị. Còn đông đảo quần chúng, nhất là công nhân, nông dân thì bị mù chữ, trình độ văn hóa thấp kém, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài đời sống văn hóa. Nền văn hóa mới phải là nền văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, không còn là của riêng thiểu số hưởng thụ mà là của quảng đại quần chúng trong xã hội. Văn hóa mới phải làm cho mọi người thoát khỏi nạn mù chữ, nâng cao hiểu biết, biết từng bước chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới. Văn hóa mới phải bắt nguồn từ đại chúng. Trong tình thế cách mạng giải phóng dân tộc, muốn đại chúng hóa nền văn hóa thì phải hướng nội dung và hình thức văn hóa phục vụ cho nhiệm vụ cứu nước. Cứu nước, đồng thời văn hóa sẽ cứu lấy mình vì chỉ có ra sức làm tròn sứ mệnh cứu nước, giải phóng dân tộc thì nền văn hóa mới mới phát triển và phục vụ đại chúng. Ngày nay, chúng ta thường nói đó chính là nền văn hoá mới với những đặc trưng dân chủ, nhân văn, dân chủ, khoa học và tiến bộ.

      Khoa học hóa là chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ. Bấy giờ, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ dưới chế độ phong kiến. Chủ nghĩa thực dân chẳng những không mấy quan tâm đến mở mang mà còn kìm hãm kỹ nghệ bản xứ, nền giáo dục thực dân chỉ chú ý những ý niệm khoa học phổ thông, không thực nghiệm, nhằm biến thanh niên, trí thức ta thành công cụ tay sai, phục vụ cho chúng…Khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa mới chống lại mọi hình thức lạc hậu, thần bí, phản khoa học của tư tưởng thực dân, phong kiến, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt trên cơ sở khoa học. Chủ nghĩa Mác-Lênin phải là kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động để xây dựng nền văn hóa mới.

      Chính vì xác định rõ vấn đề dân tộc, khoa học, đại chúng, ĐCVHVN được mọi người chấp nhận rất nhanh. Nó giải tỏa những mơ hồ trăn trở, xua tan những bi quan, gạt bỏ những lệch lạc sai lầm ở không ít người trong giới văn hóa văn nghệ  ở thời điểm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

      Từ ĐCVHVN, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu. Đó không chỉ là những bài học về nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về hiểu biết lịch sự dân tộc và thực tiễn đất nước, hiểu rõ lòng mong muốn chính đáng của quần chúng nhân dân, về sự nhạy bén với những biến đổi của tình hình, về tổng hợp những tri thức khoa học và cách mạng để kịp thời  đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Mà còn là việc vận dụng ba nguyên tắc này trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

       Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, kỷ luật, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng tạo trong lao động, có lối sống giản dị, giàu trí tuệ, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, văn minh, cần kiệm, trung thực, tuân thủ pháp luật; biết suy nghĩ độc lập, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

       Hai là, tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Văn hóa Việt Nam phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là với phát triển kinh tế. Nếu chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế đơn thuần sẽ hình thành lối sống thực dụng của xã hội hưởng thụ. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến giá trị văn hóa đơn thuần thì xã hội sẽ nghèo nàn, đời sống vật chất sẽ khó khăn, đời sống tinh thần thiếu phong phú. Do đó, phải thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân với các chuẩn mực trung thực, tôn trọng chữ tín, trách nhiệm. Đồng thời, thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hoá Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.

       Ba là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và hiện đại, tập trung xây dựng nếp sống mới, những chuẩn mực văn hóa mới, xây dựng, phát triển và sáng tạo những giá trị văn hóa mới trên nền tảng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, kế thừa và phát huy tính đa dạng, bản sắc văn hóa của các dân tộc, của các vùng, miền. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di sản văn hóa, các di tích lịch sử - văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ giáo dục văn hóa truyền thống và phát triển du lịch. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ tới giá trị chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa để vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

       Bốn là, có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hoá thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hoá. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số,... Khắc phục bệnh thành tích, bệnh hình thức. Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hoá trong lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng.

       Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá, mở rộng giao lưu văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hoá quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam và làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hoá phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hoá Việt Nam đến với thế giới. Chủ động hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ đối ngoại về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.

       Sáu là, phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.

      Tám mươi năm, kể từ khi ra đời ĐCVHVN - cương lĩnh văn hóa cách mạng đầu tiên của Đảng - đã thật sự đi vào cuộc sống và trở nên quá quen thuộc với mọi người. Phương châm vận động dân tộc, khoa học, đại chúng đã trở thành động lực mạnh mẽ của cả một phong trào lớn đấu tranh cho một nền văn hóa mới Việt Nam. Cho dù về sau, cách trình bày của Đảng về nền văn hóa mới Việt Nam có thay đổi, nhưng tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng vẫn còn mãi trong văn hóa dân chủ mới ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, cũng như trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với những phương châm vận động văn hóa ngày một toàn diện, cũng chính là sự kế thừa, phát triển những giá trị còn nguyên tính thời sự của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943./.

 

          Tài liệu tham khảo:

1. https://namnhun.laichau.gov.vn/van-hoa-xa-hoi-67129/de-cuong-ve-van-hoa-viet-nam-nam-1943-cua-t-u-602987

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I, II.


 

  Văn bản Nhà trường

  thời tiết

Hà Nội
Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh

  Thư viện ảnh