Truy cập nội dung luôn

  Nghiên cứu trao đổi

VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngày đăng 15/01/2024 | 4:45 AM  | View count: 5358

Người viết: GVC, TS. Nguyễn Thị Thu - Khoa Lý luận cơ sở

     Tóm tắt: Trên cơ sở những khía cạnh biểu hiện của quan hệ dân tộc và tôn giáo trên thế giới, bài viết tập trung n hận diện về quan hệ dân tộc và tôn giáo ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần tiếp tục phát huy hiệu quả và tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo tạo sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn mọi tác động tiêu cực và kiên quyết đấu tranh chống mọi hành động lợi dụng quan hệ dân tộc và tôn giáo gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất ổn định chính trị và phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

     Từ khóa: Quan hệ dân tộc và tôn giáo , dân tộc, tôn giáo

      Quan hệ dân tộc và tôn giáo là sự tác động qua lại, chi phối lẫn nhau giữa dân tộc và tôn giáo trong nội bộ một tộc người, giữa các tộc người, trong một quốc gia, hoặc giữa các quốc gia. Trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc và tôn giáo là vấn đề hết sức phức tạp, việc giải quyết mối quan hệ này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định chính trị và sự phát triển bền vững của các tộc người, quốc gia, nhất là các quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như Việt Nam. Những khía cạnh biểu hiện quan hệ dân tộc - tôn giáo là:

      Thứ nhất, dân tộc là cơ sở, nền tảng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo không có nguồn gốc siêu nhiên. Tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội hiện thực, đó là từ kinh tế - xã hội, từ nhận thức và tâm lý, tình cảm. Kể từ khi có dân tộc, dân tộc chính là cơ sở, nền tảng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo. Trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác khẳng định: “Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo (1).

     Không chỉ là cơ sở cho sự ra đời của tôn giáo, dân tộc chính là mảnh đất hiện thực, là nơi dung dưỡng, cung cấp những chất liệu làm phong phú đời sống tôn giáo, bởi suy cho cùng, tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội hiện thực. Lịch sử phát triển của các tôn giáo cho thấy, trình độ phát triển của tôn giáo gắn liền với trình độ phát triển của dân tộc.

      Thứ hai, sự ra đời, phát triển của tôn giáo phụ thuộc và bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất định của dân tộc.

     Sau khi xuất hiện, sự biến đổi của tôn giáo tiếp tục bị chi phối bởi trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của dân tộc theo hướng ngày càng thích nghi với những điều kiện, môi trường của dân tộc.

Đối với những tôn giáo ngoại nhập, trong nhiều trường hợp muốn du nhập và bám trụ để phát triển vào một dân tộc, bản thân tôn giáo đó cũng phải tự biến đổi, tự thích nghi cho phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của dân tộc đó. Việc thích nghi để tồn tại và bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội bản địa đã làm nảy sinh hiện tượng: cùng một tôn giáo nhưng ở mỗi dân tộc, quốc gia nó lại có những biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn, biểu hiện đa dạng của đạo Phật, đạo Tin lành... ở các quốc gia khác nhau trên thế giới có thể giống nhau về bản chất nhưng khác nhau ở cách thức thể hiện và thường mang đậm dấu ấn văn hóa của quốc gia mà nó du nhập vào.

     Hiện nay, bên cạnh xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng đề cao lòng tự tôn dân tộc, xu hướng trở về với dân tộc đang tác động đến đời sống tôn giáo trên thế giới và làm xuất hiện xu thế dân tộc hóa tôn giáo - trở về với tôn giáo truyền thống. Trong xu thế này, các tôn giáo truyền thống hay tôn giáo dân tộc được xem là chỗ dựa, là vũ khí để bảo vệ bản sắc dân tộc trước sự uy hiếp của các tôn giáo thế giới đang bị các thế lực chính trị sử dụng như một vũ khí để đồng hóa văn hóa.

      Thứ ba, tôn giáo có tác động trở lại dân tộc, có thể đồng hành cùng dân tộc hoặc cản trở sự phát triển của dân tộc.

     Xu hướng tôn giáo đồng hành cùng dân tộc khi một tôn giáo nào đó có đường hướng hành đạo tiến bộ, có cách thức tu tập phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, có đội ngũ tu trì chân chính… Ví dụ như Phật giáo ở Việt Nam thời Lý - Trần, hay đạo Do Thái của người Israel... Theo xu hướng đó, tôn giáo có thể làm giàu các chuẩn mực đạo đức, làm phong phú các giá trị văn hóa, góp phần hình thành một lối sống cao đẹp của dân tộc. Bởi thông qua giáo lý, các tôn giáo khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác ái, đặc biệt là những giá trị đạo đức sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người.

     Ngoài xu hướng trên, tôn giáo có thể xung đột với dân tộc, cản trở sự phát triển của dân tộc. Tôn giáo có thể cản trở sự phát triển của dân tộc bởi suy cho cùng, thế giới quan tôn giáo không phải là thế giới quan khoa học. Tôn giáo có vai trò cố kết cộng đồng cùng đức tin, song trong một quốc gia có nhiều tôn giáo, do tính cục bộ vốn có, nó có thể diễn ra xung đột, thậm chí, chiến tranh tôn giáo, gây hậu quả tiêu cực cho con người, xã hội. Chẳng hạn xung đột giữa những cộng đồng Hồi giáo theo dòng Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở trong một quốc gia như: Syria, Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, Hồi giáo với nhau và với Israel (Do Thái giáo); giữa Hồi giáo và Công giáo ở Philippines, Indonesia; giữa Hồi giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan, Myanmar,... Trong một số trường hợp, tôn giáo có thể bị các thế lực chính trị phản động lợi dụng để chống lại dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo thường rất phức tạp, kéo dài và khó giải quyết do liên quan đến lịch sử, dân tộc, đạo đức, truyền thống tôn giáo,... có khi ở một vùng miền, một quốc gia hay liên quan đến nhiều quốc gia. Xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo ngày càng tăng, trở thành nhân tố gây mất ổn định ở nhiều nơi.

      Vậy, hiện nay ở Việt Nam, quan hệ dân tộc và tôn giáo được biểu hiện như thế nào?

Trong lịch sử cũng như hiện tại, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, gắn đạo với đời. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng và tôn giáo nhìn chung đều đoàn kết, ý thức rõ về cội nguồn, về một quốc gia - dân tộc thống nhất cùng chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

     Từ khi đất nước giành được độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan hệ dân tộc và tôn giáo luôn được coi trọng và được giải quyết khá tốt, không dẫn đến những xung đột lớn trong nội bộ quốc gia. Trong từng giai đoạn của lịch sử, quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo được biểu hiện ở những nội dung và hình thức khác nhau. Sự vận động, biến đổi của tôn giáo gắn liền với sự vận động, biến đổi của dân tộc và được biểu hiện chủ yếu ở các khía cạnh sau:

Một , về cơ bản các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc với phương châm “tốt đời, đẹp đạo ”.

     Với đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, trong lịch sử cũng như hiện tại, các tôn giáo ở Việt Nam về cơ bản có truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo đều đoàn kết góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

     Sinh thời, khi đề cập về mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chỉ khi nào dân tộc được giải phóng, đất nước được độc lập thì tôn giáo mới được tự do, có điều kiện để phát triển. Dân tộc và tôn giáo luôn được Người xem xét, giải quyết trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh đuổi thực dân, đế quốc và kiến thiết đất nước.

     Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất quán lấy nguyên tắc đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong hoạch định, thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo. Mọi chính sách, pháp luật về tôn giáo phải quán triệt nguyên tắc đoàn kết và xuất phát từ lợi ích chung của cả dân tộc, trong đó lấy lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích vật chất và tinh thần của toàn dân làm mẫu số chung.

     Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam không phải lúc nào cũng thuận chiều. Khi chủ nghĩa thực dân, đế quốc lợi dụng tôn giáo như một “phương tiện” để áp bức dân tộc Việt Nam, hay khi một số tín đồ, chức sắc tôn giáo không đồng hành cùng dân tộc, những xung đột, mâu thuẫn giữa dân tộc và tôn giáo nảy sinh. Mâu thuẫn này đã được giải quyết khi dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc đã được thực hiện, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng.

     Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nhất là sau hơn 37 năm đổi mới, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở nước ta được phát triển theo chiều hướng tích cực và về cơ bản, không dẫn đến “xung đột” như ở một số nước trên thế giới hiện nay.

     Trên cơ sở khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chỉ rõ, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”, “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2).

      Hai là , các tôn giáo đều biến đổi để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và thích nghi với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.

     Việt Nam là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa và tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào. Lịch sử trước đây cũng như hiện nay cho thấy, các tôn giáo khi vào Việt Nam muốn trụ lại và phát triển đều phải biến đổi ít nhiều để thích nghi với truyền thống dân tộc, với nền tảng văn hóa bản địa, như: phong tục, tập quán, tâm lý... của quốc gia - dân tộc nói chung, văn hóa các tộc người nói riêng. Ngoài ra, trong quá trình hình thành và phát triển của mình, các tôn giáo lớn đều thích ứng với lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội, với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để tìm ra tiếng nói chung, nhằm tôn vinh ý nghĩa “tốt đời, đẹp đạo”.

     Trong thời gian gần đây, dưới áp lực của hội nhập quốc tế, các tôn giáo ở Việt Nam có xu hướng điều chỉnh đường hướng hành đạo theo chiều hướng ngày càng đồng hành với dân tộc, đồng hành với chế độ mới và xu thế này ngày càng diễn ra sâu sắc hơn. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam đã xác định được đường hướng hoạt động gắn bó với dân tộc. Phật giáo Việt Nam với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”; Công giáo với phương châm “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”; Đạo Tin lành với đường hướng: “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”. Đạo Cao Đài với phương châm “Nước vinh, Đạo sáng”. Phật giáo Hòa Hảo với tôn chỉ “Chấn hưng nền đạo, gắn bó với dân tộc, phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước, góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”,... Những năm qua, các chức sắc, tín đồ tôn giáo đã tích cực cụ thể hóa các phương châm hành đạo nói trên thành hành động thực tiễn trong xây dựng đạo và đời. Nhiều chức sắc tôn giáo đã gương mẫu đi đầu định hướng, dẫn dắt hoạt động của tổ chức, tín đồ theo hướng nhập thế, đồng hành với dân tộc, gắn đạo với đời, đóng góp tích cực cho xã hội.

     Trong điều kiện hiện nay, do tác động của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, quan hệ dân tộc và tôn giáo có những điểm khác biệt so với trước. Chính sự khác biệt đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước bổ sung, phát triển lý luận về dân tộc, về tôn giáo, từ đó, ban hành chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ngày càng phù hợp với bối cảnh mới theo phương châm “tôn giáo đồng hành cùng dân tộc”, “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước (3).

      Ba là , ảnh hưởng của tôn giáo đến những vấn đề ngoài tôn giáo trong các cộng đồng dân tộc - tộc người có xu hướng gia tăng.

Các tôn giáo, bên cạnh việc thực hiện chức năng tôn giáo, đồng thời còn thực hiện chức năng ngoài tôn giáo. Việc thực hiện chức năng ngoài tôn giáo ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các tộc người và của quốc gia - dân tộc theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực.

     Sự tác động của tôn giáo tới các lĩnh vực ngoài tôn giáo theo hướng tích cực thể hiện ở chỗ hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước, các phong trào thi đua sống tốt đời, đẹp đạo được tổ chức sâu rộng với nhiều hình thức khác nhau trong nhiều vùng đồng bào có đạo. Thông qua các phong trào, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được thể hiện sống động trong đời sống thực tế. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư được đông đảo chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo vận dụng sáng tạo gắn với đặc điểm của từng tôn giáo, hình thành các phong trào như: “Xây dựng chùa cảnh tinh tiến, gương mẫu”, “Xây dựng xứ, họ tiên tiến, gia đình Công giáo gương mẫu”,... Các phong trào phòng chống tội phạm, ma tuý, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới trong việc hiếu, hỉ và lễ hội, xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước của thôn xóm, khu dân cư,... đều được đông đảo tín đồ tôn giáo nhiệt tình hưởng ứng.

     Phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh được các tổ chức tôn giáo, chức sắc, nhà tu hành và đồng bào tín đồ hưởng ứng tích cực. Ở nhiều địa phương như Đồng Nai, Cà Mau, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nam, Ninh Bình,... đồng bào tôn giáo đã tự nguyện đóng góp hàng trăm tỷ đồng và hàng trăm nghìn ngày công, hiến đất, hiến nguyên vật liệu làm đường giao thông nông thôn, xây dựng trường học, khu vui chơi, sinh hoạt văn hóa, thể thao... góp phần xây dựng quê hương ngày càng khang trang sạch đẹp.

     Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tôn giáo còn có sự tác động ngược chiều đối với đời sống xã hội, cản trở tiến bộ xã hội. Chẳng hạn, trong thời kỳ hiện đại, trên thế giới xuất hiện những xu hướng thúc đẩy sự cố kết giữa vấn đề tôn giáo và vấn đề tộc người, dân tộc, hoặc gắn vấn đề tự do tôn giáo với vấn đề nhân quyền để thực hiện những mục đích chính trị, gây ra những mâu thuẫn, chia rẽ, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Thời gian gần đây, một số đối tượng, tổ chức người Việt ở nước ngoài đã lợi dụng việc tòa án Việt Nam xét xử các bị cáo mượn danh tôn giáo để vi phạm pháp luật hay là lợi dụng thời điểm Việt Nam làm việc với các đối tác nước ngoài về quyền con người và tôn giáo để liên tiếp tung ra những luận điệu vu cáo về tự do tôn giáo tại Việt Nam. Và những chiêu trò núp bóng tôn giáo hòng mưu đồ kích động chia rẽ đoàn kết tôn giáo, dân tộc tại Việt Nam.

      Bốn là , hình thành các cộng đồng tộc người - tôn giáo liên vùng, liên quốc gia, xuyên quốc gia và liên khu vực.

Sự phát triển của các loại hình tôn giáo tại các vùng dân tộc thiểu số đã hình thành các cộng đồng tộc người - tôn giáo liên vùng, liên quốc gia, xuyên quốc gia và liên khu vực như: Tin lành ở người Mông (khu vực phía Bắc); Tin lành phát triển trong vùng đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, Islam và Bàlamôn ở người Chăm (khu vực duyên hải miền Trung) và Phật giáo Nam Tông ở người Khmer (khu vực Tây Nam Bộ).

     Người Khmer ở Tây Nam Bộ theo Phật giáo Nam Tông có mối quan hệ truyền thống với người Khmer ở Campuchia từ lâu đời. Người Mông ở khu vực Tây Bắc theo Tin lành có mối liên kết với người Mông theo Tin lành ở các khu vực khác như: Tây Nguyên, Lào, Trung Quốc, Mỹ. Trong đó, đặc biệt lưu ý là mối quan hệ dân tộc - tôn giáo của người Mông xuyên biên giới Việt Nam - Trung Quốc... Các mối quan hệ kể trên, bên cạnh mặt tích cực cũng đang nảy sinh những vấn đề phức tạp cần được quan tâm. Những năm gần đây, tại các địa phương khu vực Tây Bắc vẫn có hiện tượng người Mông từ Vân Nam, Trung Quốc nhập cảnh trái pháp luật để hoạt động tuyên truyền phát triển đạo Tin lành, lôi kéo người Mông sang Trung Quốc học đạo, nhận kinh sách, v.v. gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý nhà nước. Trong tương lai sắp tới, khi khu vực hành lang kinh tế Đông - Tây và tuyến hành lang châu Á xuyên qua khu vực Tây Bắc Việt Nam được mở, chắc chắn người Mông ở Tây Bắc sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong giao lưu với người Mông ở Trung Quốc. Khi đó, những mối quan hệ đồng tộc, đồng tôn của người Mông ở biên giới quốc gia Việt Nam - Trung Quốc sẽ còn nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Bên cạnh đó, có những người Mông ở khu vực miền núi phía Bắc vào khu vực Tây Nguyên đã làm cho đức tin tôn giáo trở thành yếu tố duy nhất gắn kết các cộng đồng người Mông theo đạo giữa các khu vực khác nhau (khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên), tạo ra mối liên kết, cố kết theo dạng tộc người - tôn giáo.

     Trong thời gian tới, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo ở nước ta cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

      Một là, nhận thức đúng về vấn đề dân tộc, tôn giáo, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

      Hai là, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo.

      Ba là, nâng cao chất lượng hoạt động và vai trò của hệ thống chính trị trong giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo.

      Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, chủ động và kiên quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quan hệ dân tộc và tôn giáo nhằm kích động quần chúng chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.         

      Năm là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.

      Sáu là, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ./.

 

 

Ch ú thích:

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.1, tr.569.

(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.1, tr.171.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chỉ thị 18-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 10/01/2018 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

          2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I.

          3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận chính trị, H.2021.

          4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, PGS, TS Hoàng Minh Đô, TS Lê Văn Lợi (Đồng chủ biên): 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc và tôn giáo - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, H.2014.

          5. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật số: 02/2016/QH14, ngày 18 tháng 11 năm 2016.

 

  Văn bản Nhà trường

  thời tiết

Hà Nội
Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh

  Thư viện ảnh